Thứ Bảy, 5 tháng 1, 2013

Một số loài Tôm nước mặn sưu tầm

Một số loài Tôm nước mặn sưu tầm
Nhằm thỏa mãn đam mê về Tôm, Tép mình muốn giới thiệu một số loại Tôm (tép) NƯỚC MẶN để anh em thấy thêm vẻ đẹp của chúng.

1/ Mở màn là một loại Tôm Bác Sĩ : Loại tôm này có khả năng ăn "nấm bệnh" xuất hiện trên mình của các loại Cá biển. Vẻ đẹp của nó mình thấy cũng gần giống như Lord Shirmp





2/ Tôm Hải Quì : Loại tôm này nhìn rất ngộ, toàn thân mình "trong suốt" chỉ có tay chân 
của nó màu trắng thôi. Suốt ngày chúng chỉ bám theo hải quỳ (nên mới có tên như thế)



3/ Tôm Bông : Đây là loại tôm có hình dáng khá đẹp mắt cả về hình thức lẫn dáng đi của chúng, loại tôm này là "Sát thủ" của Sao Biển







4/ Tôm Lực Sỹ : Thật xứng với danh hiệu của nó






5/ Tôm lửa :Tôm y tá - Blood Red Fire Shrimp 
Mấy em này nhìn thì rất đẹp như là tép sulawesi ấy

Tôm y tá rất nổi tiếng vì màu sắc tuyệt đẹp của nó. Phủ trên thân tôm là một màu đỏ sâu, với râu trắng và đốm trắng .Tùy thuộc vào khu vực biển Ấn Độ -Thái Bình Dương mà từ đó tôm bắt nguồn, tôm có thể có các chấm trắng chỉ trên lưng của chúng, hoặc bao phủ toàn bộ cơ thể của nó..

Giống như tôm bác sỹ, tôm y tá sẽ làm sạch ký sinh trùng và nấm trên thân cá. Tôm này thích rất nhiều đá để trú ẩn, nhưng cũng sẽ làm sạch cho cư dân của hồ cá. Điều này có thể rất hữu ích trong việc ngăn ngừa các bệnh như Ick. Shrimp thuộc lớp Crustacea , được đặc trưng bởi hai cặp râu, ba bộ phận cơ thể, và năm đôi chân. Đầu tôm được kết nối với ngực và bao phủ bởi một lớp vỏ gọi là mai. Các anten của tôm thường dài và mỏng và phục vụ tôm như mắt mở rộng. Tôm đã phát triển cao bụng cho phép di chuyển nhanh chóng. Để cho tôm phát triển , một quá trình gọi là "lột xác", cho phép chúng loại bỏ vỏ cũ của chúng bắt đầu một bộ vỏ mới. 

Các chế độ ăn uống của Tôm y tá nên bao gồm thức ăn khô, thực phẩm sống hoặc đông lạnh, và các loại thực phẩm xay .
Chăm Sóc : Dễ dàng
Tính cách : hòa bình
Tương thích hồ san hô : Có
Điều kiện nước : 72-78 ° F, dKH 8-12, pH 8,1-8,4, độ mặn 1,023-1,025
Kích thước : 2 "
Mẫu màu : đỏ, trắng
Chế độ ăn uống : ăn thịt
Bổ sung : canxi, magiê, iốt, Trace Elements
Xuất xứ : Indonesia, Sri Lanka



Nhìn rất ngầu & pro 
Đánh bắt được vài chú Tôm lửa (Fire Shrimp) trên mạng:





Kiếm em này khó hơn Tôm Bác Sĩ à nha


Anh em nào có thêm thông tin hay hình ảnh của các loại Tôm biển xin đóng góp thêm ý kiến. 
Thanks all!
Nguồn: Aquabird

Tôm lực sỹ Coral Banded Shrimp

Tôm lực sỹ Coral Banded Shrimp
Tôm lực sỹ là một loài động vật không xương sống rất phổ biến mà được giữ trong nhiều hồ cá cảnh biển. Chúng thường được tìm thấy trong khe đá sống trong hồ. Hầu hết thời gian của chúng thường trốn trong đá nên bạn sẽ ít thấy chúng. 
Nếu tôm của bạn bị mất một càng hoặc chân. chúng sẽ tạo lại nó trong thời gian tới khi lột vỏ. Iốt bổ sung có thể cần phải được thêm vào bể nước của bạn.



Những tôm thường rất khỏe mạnh nếu đã được thích nghi từ từ. Bạn nên thích nghi chúng với nước hồ cá của bạn trong thời gian một giờ hoặc nhiều hơn để tránh gây sốc pH. Ngoài ra, cẩn thận đọc những loại thuốc trước khi sử dụng chúng trong một bể với vật không xương sống. Nhiều loại thuốc cá sẽ giết chết vật không xương sống của bạn.


Tên khoa học: Stenopus hispidus
Tên thường gặp: tôm lực sỹ 

Chăm Sóc : dễ dàng, thích hợp cho người mới bắt đầu chơi bể nước mặn

Tuổi thọ: 2 - 3 năm, có thể dài hơn

Kích thước: Lên đến 2 inch (5 cm)

pH: 8,0-8,4

Nhiệt độ: 72 ° F - 80 ° F (24 ° C - 27 ° C)

Tỷ trọng: 1,022-1,025

Độ cứng cacbonat (dKH): 8-12 °

Nguồn gốc / Môi trường sống: Ấn Độ-Thái Bình Dương

Tính / hành vi: hòa bình nếu không thả chung với tôm khác, đặc biệt là các tôm lực sỹ khác. Ngoại lệ cho quy tắc này là một cặp tôm lực sỹ giao phối.

Chăn nuôi / Giao phối / sinh sản: khó khăn để nuôi chúng trong hồ cá nhà vì ấu trùng hoặc là bị ăn hay hút vào hệ thống lọc.

Tank Kích thước: 30 gallon tối thiểu

Tương thích : Tránh việc giữ chúng trong một hồ cá với cá mao tiên , cá hồng, Cá mú, Triggers, Eels hoặc bất kỳ cá săn mồi khác đủ lớn để ăn chúng. Chúng tôi không khuyên bạn nuôi chúng với tôm khác. Có thể bạn sẽ thấy kết quả tốt hơn nhiều chỉ có một Tôm lực sỹ giữ trong hồ.

Chế độ ăn uống / Thực phẩm: cố gắng để cung cấp cho họ nhiều loại thức ăn, các loại thực phẩm giàu vitamin , thức ăn đông lạnh và thực phẩm sống. Bạn có thể phải sử dụng một cây gậy ăn để đặt thức ăn trực tiếp ở phía trước của tôm để nó không phải cạnh tranh với các loại cá nhanh hơn.

Giới tính: con đực hơi nhỏ hơn và con cái có màu hơi xanh buồng trứng thường có thể dễ dàng nhìn thấy.





Tép Amano _ Yamato

nguồn : thuysinh.vn
Thông tinXuất xứ: Nhật 
Giới tính: Không rõ ràng 
Nhiệt độ: Không khắt khe 24=> 30 sống vô tư
Tập tính: Háu ăn 
Kẻ thù: Các loài cá dữ 
Hoạt động: Ban ngày 
Tự vệ: Khó nhìn rõ trong hồ TS hay trốn
Kích thước: khoảng 6cm 
Thức ăn: Các loại tảo , ăn tạp
Nước: Không đòi hỏi . rất khõe 
Sinh sản: rất khó , chỉ có thể đẽ trong môi trường nước lợ 


Khi đạt tới 3cm tép Yamato đã ăn rêu tảo rất hiệu quả

.Nguồn gốc: với cái tên Caradina japonica, bạn có thể biết ngay chúng tới từ Nhật Bản. Có những phân loài khác nhau sống trong những đầy lầy của mỗi vùng. Chúng đều thích ăn rêu tảo. 
Người ta còn gọi chúng với cái tên tép Amano.

Tên gọi: Chuyên gia bậc thầy Amano đã giới thiệu loài giáp xác ăn rêu tảo tuyệt vời này trong 1 cuốn sách về thuỷ sinh theo trường phái tự nhiên. Ông ca ngợi khả năng dọn rêu tảo xuất sắc của chúng. Hiệu quả công việc khiến người ta gọi chúng là tép Amano. Ông Amano đề nghị thả 1 cặp / 4 lít nước.



Thức ăn: Tất nhiên tép ăn rêu thì phải ăn rêu rồi. Chúng còn ăn hạt khô của cá. Hãy bỏ đói chúng nếu bạn muốn chúng dọn rêu tảo. Khi hết rêu tảo, chúng sẽ ăn cây của bạn. Lúc đó hãy cho chúng ăn. Chúng còn chén cả xác cá nhưng không bào giờ tấn công cá. Loài tép này không ăn rêu lông đen


Hồ nuôi:nếu bạn muốn dọn rêu trong các hồ nhỏ hãy thêm chúng vào hoá đơn mua hàng. Hồ nuôi phải có nắp đậy, chúng hay nhảy ra ngoài và bò nhanh như gián vậy. 

Chúng không ngần ngại nhảy ra ngoài khi cảm thấy thích. 



Khi ra khỏi nước: Các loại tép thường bất động khi bắt lên vợt, tép Amano thì không. Chúng sẽ bò ra khỏi vợi và rớt xuống sàn. Chúng có thể nhảy cao tới 8-10 cm và bò lổm ngổm trên sàn nhà

Nuôi chung: Chúng sống hoà đồng với cá nhỏ, tetras, chuột cory, phượng hoàng và sặc. Không bao giờ nuôi chung với tôm càng, tôm sẽ xử chúng ngay. 

Nhiệt độ: thích nghi nhiệt độ trung bình của hồ thuỷ sinh. 

Chúng rất hay bò lên cục bông lọc trong hồ. 

Tập tính: nhiều người nói tép Amano nhát, ăn đêm. Tôi thì thấy rằng chúng tuy nhỏ mà lanh lợi. Nếu bạn tạo nơi trú ẩn, chúng sẽ sử dụng. Trong hồ trống thì chúng luôn ở phía trước. Chúng thích dọn dẹp cục bông lọc và phân loại tất cả những mảnh vụn tìm được. 

Chúng cũng rình mồi như 1 loài dã thú

Trang trí: Tép Amano rất thích thảm rêu cá đẻ. Chúgn lần mò trên đó cả ngày. Bạn cũng có thể trang trí theo cách mà bạn thích.

So với tép cherry, chúng là chàng khổng lồ. 

Nước: không cần bận tâm lắm về nước trừ khi bạn tính cho chúng sinh sản. Chúng xuất xứ từ đầm lầy nên những gì bạn tạo ra còn tốt hơn. 

Sinh sản: Loài giáp xác này khó cho sinh sản, nhưng bên Trung Quốc họ đã thành công. Các trang trại ở Đài Loan thường xuất 3 loại khác nhau. Chìa khoá ở đây là dùng nước lợ, tách riêng tép con khỏi bố mẹ. Không dùng lưới quây tép con, chúng có thể trèo ra ngoài.

Tôm quạt

Chris Lukhaup – www.practicalfishkeeping.co.uk



Các loài tôm cảnh rất được ưa chuộng vì ngày càng có nhiều người mong muốn nuôi chúng trong hồ của mình. Mặc dù các loài tép (dwarf shrimp) phổ biến hơn, nhưng tôm quạt (fan/filter-feeding shrimp), họ hàng to lớn hơn của chúng, thường ít được để ý vì không có công dụng ăn tảo và những đặc điểm được ưa chuộng khác.

Nếu được nuôi dưỡng đúng cách, những loài này phô bày hành vi thú vị và sống lâu dài trong hồ cảnh đúng như mong đợi.

Tên của chúng bắt nguồn từ hình thức kiếm ăn chuyên hóa cao độ. Những sợi tơ trên càng (chela), mà đó là đặc trưng của họ tôm, dài hơn nhiều so với tép và có hình dạng như chiếc quạt đang xòe. Chúng sử dụng những chiếc càng hình quạt này để lọc những mảnh thức ăn nhỏ chẳng hạn như ấu trùng muỗi, bo bo Daphnia và bọ một mắt Cyclops, cũng như tảo lẫn trong dòng nước. Nhưng đừng lo, hình dạng chuyên biệt của càng này không hề nguy hiểm đối với cá.

Dòng suối
Những loài tôm này chủ yếu sống trong các dòng suối chảy xiết ở vùng nhiệt đới. Chúng bám vào nền đá, đối diện với dòng nước, bằng các cặp chân và càng mạnh mẽ. Chúng hiếm khi xuất hiện ở vùng đáy cát hay đất bùn vốn là địa hình đặc trưng ở vùng hạ lưu.

Khi nuôi trong hồ, cần phải lưu ý đến nhu cầu dòng chảy mạnh và nồng độ ô-xy hòa tan cao của chúng. Vì vậy, bên cạnh bộ lọc, cần bổ sung thêm một máy bơm để tạo dòng lưu chuyển một cách thường trực. 

Vì thích nghi với các dòng chảy xiết nên những loài tôm này có nhu cầu ô-xy rất cao, điều không thể tái tạo trong các hồ thủy sinh rậm rạp. Dĩ nhiên, địa bàn phân bố tự nhiên của chúng không hề có mật độ cây thủy sinh cao.


Tôm quạt Atya gabonensis với màu xanh nổi bật.

Nơi trú ẩn vào ban ngày
Vào ban ngày, chúng thường nấp dưới những tảng đá lớn hay cành cây. Vì vậy, hầu hết các loài tôm quạt hiếm khi lộ diện trong hồ nuôi dù kích thước khá lớn (một số loài thuộc chi Atya có thể đạt đến 15 cm).

Chúng chỉ xuất hiện dưới ánh đèn mờ hay trong bóng tối để lọc thức ăn lơ lửng trong dòng nước tại địa điểm ưa thích. Đây là bằng chứng cho thấy sự thích nghi của chúng đối với điều kiện tự nhiên.


Tôm quạt Atya mollucensis là loài phổ biến nhất trong các tiệm cá cảnh.

Lọc thức ăn
Trong vùng có dòng chảy, lượng sinh vật phù du gia tăng vào ban đêm bởi vì nguy cơ bị ăn thịt bởi loài săn mồi như cá hay chim ăn côn trùng giảm nhiều. Như vậy, việc cho tôm ăn trong hồ cảnh bằng thức ăn tươi, đông lạnh hay thức ăn tổng hợp xay nhuyễn nên được thực hiện vào ban đêm.

Hoàn toàn có thể nuôi tôm chung với những loài ưa dòng chảy chẳng hạn như chuột tiêu (pepperd catfish) hay characin.

Tuy nhiên, không nên nuôi chung tôm quạt với những loài ưa sấn sổ như bảy màu hay molly bởi vì những loài này thích rỉa các sợi tơ quạt của tôm, điều chắc chắn sẽ làm chúng bị căng thẳng.

Tôm quạt thuộc họ Atyidae, phân họ Atyinae. Tất cả đều phân bố ở các vực nước trong nội địa – chúng không hề xuất hiện trong nước lợ hay nước mặn.

Những loài tôm quạt cỡ lớn thuộc các chi AtyaAtyopsis và Atyoida là những loài tôm cảnh quan trọng. Những loài nhỏ hơn, chẳng hạn như chi tép Micratya chỉ được vài chuyên gia nuôi mà thôi. Về phương diện phân loại, chi tép này không phải là tôm quạt, mà thuộc về một phân họ khác, phân họ Caridellinae.

Tôm quạt xanh khổng lồ Atya gabonensis
Tôm quạt xanh khổng lồ châu Phi (blue giant African filter shrimp) xuất xứ từ các dòng chảy đổ ra Đại Tây Dương ở Tây Phi và Nam Mỹ. Với kích thước lên đến 15 cm, vỏ của loài tôm này có những rãnh gồ ghề, điều khiến chúng rất dễ phân biệt so với những loài tôm quạt khác.

Khác với tên gọi, không phải cá thể nào cũng có màu xanh. Màu xám và màu đen (những cá thể già) xuất hiện rất thường xuyên. Đôi khi, những cá thể trắng toát xuất hiện trong hồ cảnh sau khi chúng lột vỏ. Lý do của việc mất màu này hãy còn là điều bí ẩn.


Tôm quạt Atya gabonensis biến thành màu trắng sau khi lột vỏ.

Như những loài cùng chi khác, A. gabonensis cần thức ăn nổi thật nhuyễn dưới dạng bột tảo, giáp xác khô (bo bo Daphnia, bọ một mắt Cyclops), lăng quăng khô hay thức ăn tổng hợp nghiền nát, mà chúng được bỏ vào hồ ngay sau khi tắt đèn để các loài sống về đêm này có thể kiếm đủ thức ăn.

Thay vì sử dụng bộ lọc, cần sử dụng một máy bơm mạnh để đảm bảo dòng nước được lưu chuyển và thức ăn không bị lọc khỏi nước. Nếu không được cung cấp đủ thức ăn, chúng cũng sẽ tìm thức ăn chìm dưới đáy. Tuy nhiên, điều này khiến cho các sợi tơ quạt phải vươn hết mức.

Atya scabra
Loài này chỉ hơi nhỏ hơn tôm quạt xanh khổng lồ một chút. Chúng cũng phân bố ở khu vực tương tự với loài trên nhưng xa hơn về phía bắc, lên tận Trung Mỹ và các đảo ngoài khơi.

Mặc dù loài này không có lớp vỏ gồ ghề như A. gabonensis, nhưng vỏ của những cá thể già nổi đầy những nốt nhỏ khiến chúng rất sần sùi.

A. scabra thể hiện sự biến đổi màu sắc rất thú vị. Mặc dù những cá thể non có màu từ xanh lục cho đến xanh lục-xám, nhưng khi đạt đến một kích thước nhất định thì chúng sẽ chuyển thành màu đỏ/đỏ-nâu. Những cá thể già thường có màu nâu sậm.


Tôm quạt Atya scabra.

Như tất cả các loài tôm quạt khác, A. scabra không thể sinh sản trong nước ngọt. Đấy là bởi vì ấu trùng tôm cần trải qua nhiều giai đoạn phát triển trong nước lợ hay nước mặn trước khi cá thể non lần theo các dòng chảy lên vùng sinh thái nước ngọt ở thượng nguồn.

Ở đấy, chúng sống cuộc đời của tôm trưởng thành và tôm cái, sau khi sinh sản, phóng thích ấu trùng để rồi chúng lại trôi theo dòng nước ra biển.

Atyoida pilipes
Vài tháng gần đây, loài tôm quạt màu nhạt xuất xứ từ Indonesia và New Guinea xuất hiện trên thị trường cá cảnh. Chúng có kích thước và hình dạng tương tự như tôm quạt châu Á, nhưng cấu tạo chi tiết và màu sắc rất khác biệt.


Tôm quạt Atyoida pilipes.

Điều đặc biệt thú vị ở loài tôm này là cách mà chúng nở và phát triển thành tôm đực ở giai đoạn đầu đời với càng và những sợi tơ ngắn mà chúng dùng để bắt những sinh vật nhỏ trên mặt nước. Nhưng ở một độ tuổi và kích thước nhất định, chúng biến thành tôm cái với những cái càng điển hình của loài tôm quạt để lọc thức ăn từ dòng nước. Không may, các tiệm cá cảnh thường chỉ có nhưng con tôm cái to mà thôi. 

Tôm quạt châu Á Atyopsis moluccensis
Trong khi cả hai loài tôm thuộc chi Atya đều phân bố trong các con sông và dòng chảy đổ ra Thái Bình Dương, thì tôm quạt châu Á (Asian filter shrimp) xuất xứ từ vùng thuộc phạm vi Ấn Độ-Thái Bình Dương ở châu Á. 

Với kích thước tối đa khoảng 9 cm, loài này tương đối nhỏ hơn so với tôm quạt xanh khổng lồ. Tuy nhiên, chúng rất đẹp – với những sọc mảnh, rõ nét màu xanh lục hay nâu nhạt chạy dọc thân. Thêm nữa, loài này đỡ nhút nhát hơn so với những họ hàng ở hai bờ Đại Tây Dương của mình và người nuôi có thể thấy chúng xuất hiện thường xuyên vào ban ngày để lọc thức ăn.


Tôm quạt Atyoida moluccensis.

Như những loài Atya, thức ăn của chúng phải bao gồm cả rau và thịt xay nhuyễn và thả trong dòng nước.

Ngoài tôm quạt châu Á, loài có họ hàng gần A. spinipes đôi khi cũng xuất hiện trong các tiệm cá cảnh. Không thể phân biệt được chúng nếu không dùng đến kính hiển vi.

Loài này cũng không thể lai tạo trong nước ngọt, vì vậy tất cả cá thể mà bạn thấy ngoài tiệm đều được bắt từ tự nhiên. Những nỗ lực lai tạo một cách nghiêm túc loài này trong nước lợ đều được khuyến khích vì lý do bảo tồn. 

Micratya poeyi
Loài tép xinh đẹp này, mà kích thước rất nhỏ, không phải là tôm quạt về mặt phân loại. Tuy nhiên, chúng cũng có càng với những sợi tơ dài và sử dụng cách lọc thức ăn tương tự như tôm quạt.


Tép Micratya poeyi

Loài này xuất xứ từ các dòng chảy đổ vào biển Caribbean và hiếm khi xuất hiện trên thị trường cá cảnh. Tép Micratya cũng cần hồ có dòng chảy mạnh. Dung tích hồ không cần lớn như hồ nuôi các loài tôm quạt to hơn.

Tép Cam, Tép Sunkist

Tép Cam, Tép Sunkist
Tên khoa học: Caridina cf. propinqua




Xuất xứ: Sulawesi, Indonesia 
Kích thước: 2-2.4cm
pH: 6.5-7.5 
Nhiệt độ: 24-30ºC 

Nguồn gốc
Nơi sinh sống tự nhiên và giống loài chính xác của loài Tép Cam này vẫn chưa được xác định chính xác. Với những thông tin có được thì chỉ có thể khẳng định rằng chúng khá các loài tôm thuộc họ Cardina Propinqua thường được tìm thấy trong các khu đầm lầy nước lợ ở Sulawesi, Indonesia.

Đặc tính
Rất dễ nhận diện tép Cam nhờ toàn thân có màu cam sáng với một vài vệt đỏ loang lỗ. Cũng khó nhầm lẫn loài này với tép Tiger (tép Cọp), vì tép này mình dài và dáng thon hơn so với tép Tiger. Nếu ngắm gần hơn và kỹ hơn, sẽ nhận thấy chúng gần giống với tép Ghost (tép Ma?) hơn; có phần đầu hơi chúi xuông, đuôi và lưng thấp, và càng gắp thức ăn dài hơn. 

Nuôi trong hồ thuỷ sinh
Giới thuỷ sinh thường bị mê hoặc bởi màu cam sáng nổi bật và tạo điểm nhấn hấp dẫn trên nền xanh của các loài cây thuỷ sinh trong hồ cũng như trên mảng màu tối của phân nền. Tép Cam là loài hiền lành và rất dễ thích nghi với môi trường mới, do vậy có thể nuôi chung với hầu hết các loài tép nước ngọt khác như Tép Ong (Crystal Red Shrimp), Tép Cọp (Tiger Shrimp), Tép Snowball (?), Tép Xanh ngọc (Blue Pearl Shrimp) và Tép Đỏ (RC Shrimp) - mà cũng không lo bị lai tạp. 

Thức ăn
Là loài tép thuần chủng, Tép Cam có thể ăn rất nhiều thứ: rêu, tảo, thức ăn hạt v.v...

Chất lượng nước
Do có nguồn gốc từ các vùng đầm lầy duyên hải (nước lợ), Tép Cam có thể thích nghi với nhiều điều kiện môi trường nước khác nhau, nhiệt độ và độ pH cũng có thể dao động trong phạm vi rộng. Tuy nhiên cần lưu ý là trong môi trường nuôi nhốt là độ cam sáng sẽ bị giảm và có thể bị chuyển sang màu xám.

Sinh sản
Người nuôi thường rất phấn khởi khi phát hiện được một hai chú Tép Cam mang bọc trứng. Tuy nhiên, sau một vài ngày, tép cái sẽ xả hết trứng mà không biết nguyên do. Nguyên do là Tép Cam thuộc loài sinh sản cấp thấp, nghĩa là trứng phải nở thành ấu trùng trong môi trường nước lợ. Và ấu trùng phải phát triển qua nhiều giai đoạn trước khi lớn thành tôm trưởng thành. Việc tạo ra môi trường sinh sản phù hợp (nước lợ) khá phức tạp chính là nguyên do khiến rất hiếm khi thấy Tép Cam có thể sinh sản được trong hồ thuỷ sinh.

Các dòng tép trung và cao cấp

Chris Lukhaup - www.practicalfishkeeping.co.uk



Tép Panda tương tự với tép ong đen nhưng màu đen đậm hơn nhiều (King Kong là biến thể mà màu đen hầu như lan toàn thân). 

Những con tép nước ngọt đầu tiên xuất hiện trong hồ cảnh ở khắp nơi trên thế giới vài năm gần đây, làm dấy lên và thúc đẩy một xu hướng chơi mới. Từ đó, những loài động vật không xương sống có nguồn gốc nước ngọt như tôm càng (crayfish), ốc, cua và trên tất cả là tép đã chiếm được tình cảm của nhiều người chơi cá.

Nhà vua không ngai của xu hướng này, loài có tên tép crystal* (Crystal Red) Caridina cf. cantonensis, hiện vẫn chưa được mô tả về mặt khoa học. Tuy nhiên, có nhiều lý do để tin rằng đây là một loài riêng biệt.

Dạng gốc của loài tép này xuất xứ từ Tân Giới (New Territories), Hồng Kông nhưng chỉ một số người biết địa điểm chính xác – lý do là để bảo vệ quyền lợi kinh tế của những nhà khai thác địa phương trước bất kỳ đối thủ cạnh tranh khai thác và vận chuyển loài tép này ở khắp nơi trên thế giới.



Thời điểm hiện tại, sự hâm mộ cuồng nhiệt đang bao trùm loài này – cũng tương tự những gì từng xảy ra với cá bảy màu. Có những cuốn sách viết riêng về tép crystal, tiệm chuyên bán tép crystal và nhiều trang web được lập riêng cho loài sinh vật tuyệt diệu này. Các nhà lai tạo và người chơi tép ở Đông Nam Á, Nhật Bản và châu Âu chi hàng đống tiền cho thú đam mê tép - đặc biệt nếu đấy là một biến thể tép mới lạ.

Đó là tép ong đỏ* (Red Bee) từ Nhật Bản, tép Black Tiger từ Đức hay tép King Kong (King Kong Bee) từ Đài Loan, chúng hiện là những biến thể bắt buộc “phải có” bằng bất cứ giá nào đối với nhiều nhà lai tạo. 

Giá cả trên trời


Hầu hết người chơi cá phải đối mặt với một cuộc chiến cân não khi phải quyết định giữa việc mua một con tép với một chiếc xe hơi compact! 

Đương nhiên, bạn luôn có thể mua tép, hy vọng thu được rất nhiều tép con và kiếm được nhiều tiền từ những con tép này. Nhưng đừng “đếm cua trong lỗ” - hay đếm tép cũng vậy - trước khi chúng nở bởi vì những con tép này có nhu cầu khá cao và thường chết một cách đột ngột sau vài ngày.

Người mới chơi không chỉ tiếc nuối cho những con tép non mà họ đặt hy vọng vào đó mà còn ở số tiền đầu tư ban đầu. Ở đây, sai lầm chung mà nhiều người chơi cá mắc phải là thiếu kiên nhẫn và không chuẩn bị đầy đủ cho nhu cầu của chúng.


Tép Blue Bolt hay siêu King Kong

Biến thể màu
Những biến thể màu mới xuất xứ từ Đài Loan tạo ra sự kinh ngạc. Những nhà lai tạo gọi chúng là tép Panda, tép King Kong, Blue Bolt (hình trên), Red Ruby hay Golden (hình dưới). Khi những con tép đầu tiên xuất hiện ở Nhật Bản và châu Âu, những tiếng rền rĩ khao khát cất lên từ các diễn đàn và các nhà lai tạo – tương tự với những gì xảy ra xung quanh tép Sulawesi cách đây không lâu. 

Những biến thể mới được lai tạo từ đột biến ngẫu nhiên xuất hiện ở Đài Loan, trong hồ của một nhà lai tạo chuyên về các biến thể tép ong đỏ. Biến thể tương tự cũng xuất hiện ở Đức, nhưng cho đến nay không có ai lai tạo những biến thể xuất sắc đó.

Vì vậy, sự xuất hiện của những con tép mới đến từ Đài Loan có lẽ là vận may hoặc cả tài năng của nhà lai tạo. Hiện tại, ông đã thành công trong việc tạo ra dòng tép thuần và ổn định ở những biến thể này, từ đó đặt nền móng cho một thế hệ tép ong đỏ mới.


Tép Golden

Khi so sánh nhu cầu của những biến thể và dạng tép khác nhau, bạn sẽ nhanh chóng thấy rằng chúng gần giống nhau trên thực tế. Tuy nhiên, một số loài không khó như những loài khác và sống ổn ở độ pH cao hay nước cứng. Nhưng nếu bạn muốn lai tạo chúng một cách thành công, bạn phải luôn cung cấp thông số nước tương tự như điều kiện môi trường sống của chúng ngoài tự nhiên ở miền nam Trung Quốc, Đài Loan và Hồng Kông. 

Thông số nước tương tự
Khi Andreas Karge, Werner Klotz và tôi khảo sát những môi trường này ở miền nam Trung Quốc và Hồng Kông vào năm ngoái, chúng tôi phát hiện thấy thông số nước ở các vùng đều như nhau.

Tép sống chủ yếu ở vùng nước cạn ven các con suối nhỏ, chảy chậm, nơi mà nhiệt độ khá lạnh, chỉ khoảng 16 độ C. Không phát hiện thấy độ cứng carbonate (kH) và độ dẫn điện là 12 µS khiến độ pH chỉ là 5.8.

Môi trường tự nhiên của chúng mang mọi đặc điểm của một nguồn nước mềm điển hình.

Ở hai bên bờ của những con suối rậm rạp có rêu (moss) và dương xỉ (fern), nhưng chúng tôi không thể phát hiện bất kỳ loài thủy sinh nào mọc hoàn toàn trong nước. Nền đáy có cát hay đá và một lượng tương đối lá rụng trong các vũng nước lớn. Chúng tôi phát hiện thấy đa số tép tập trung ở những vùng như vậy.

Do vậy những nhà lai tạo thành công tái lập điều kiện này, càng giống càng tốt, cho các hồ lai tạo của mình.



Đáp ứng nhu cầu
Khi viếng thăm một chi nhánh lai tạo của Đài Loan ở Trung Quốc đại lục thì tôi mới thấy được những gì diễn ra bên trong. Nhờ phỏng vấn một trong những nhà lai tạo hàng đầu người Đài Loan mà tôi có thể rút tỉa được một số bí quyết lai tạo các biến thể tép King Kong, Panda và Red Ruby. 

Tại trại, lớp đáy bao gồm đa phần là các viên đất sét nung mà không dùng đất nhờ vậy chất lượng nước không bị ảnh hưởng. Nước rất mềm, độ pH hơi a-xít cho đến trung hòa.

Lớp đáy không được trải trực tiếp lên đáy hồ, thay vào đó được trải bên trên một bộ lọc đáy (undergravel filter) hút bởi một máy bơm mạnh - nối với bộ lọc ngoài, hay kết hợp với một bộ lọc khí (sponge filter).

Hệ thống này được thiết kế và thử nghiệm ở Nhật Bản và giảm được tải hữu cơ nhằm hạn chế mật độ vi khuẩn càng thấp càng tốt. 

Không hồ nào mà tôi thấy được nuôi quá nhiều hay nhỏ hơn 80 lít, bởi vì hồ càng lớn thì càng dễ duy trì tính ổn định.

Ở bên ngoài, bạn thường thấy những hồ lai tạo quá nhỏ với lớp nền quá mỏng nơi mà thức ăn và phân nằm lẫn lộn và vì vậy, có một nguy cơ tiềm tàng, đặc biệt là với những con tép bột (shrimplet).



Tép non cũng cần môi trường thật ổn định và di chuyển quanh quẩn ở một vùng nhỏ, nhưng nếu mật độ vi khuẩn cao hoặc có một túi yếm khí ngay tại vị trí của chúng thì hầu hết những con tép non có lẽ không qua khỏi.

Những nhà lai tạo nổi tiếng, những người không dùng bộ lọc đáy phải làm vệ sinh đáy hồ hai lần mỗi tuần.

Một yếu tố quan trọng nữa để lai tạo thành công dường như là sục khí tốt.

Nhiều loài tép chịu đựng kém khi nhiệt độ tăng đột ngột – tép bột “lên đường” trước tiên. Tuy nhiên, nhiệt độ giảm dường như không ảnh hưởng gì. Lưu ý điều này khi bạn vớt tép để thả vào hồ khác.

Điều cũng cực kỳ quan trọng là giúp chúng thích nghi với thông số nước mới một cách thật chậm rãi và từng bước nhỏ sau một thời gian dài, dường như là bí quyết để thành công.

Để lai tạo tép King Kong và những loài khác, độ dẫn phải là 200 microsiemens/cm và độ pH từ 6.4 đến 6.9. Nhiệt độ để lai tạo phải từ 22-24 độ C nhưng chúng có thể sống vô tư ở tầm thấp hơn từ 17-22 độ C, tương tự như nhiệt độ ngoài môi trường tự nhiên.

Hầu như tất cả các hồ lai tạo được trồng rất ít cây thủy sinh, đa phần là rêu (moss) hay một số rong mái chèo Vallisneria. Các hồ còn có cả những mẩu lũa nhỏ để tép ăn tảo bám trên đó.

Biến thể màu mới được nuôi chung với những biến thể màu đã biết khác ở chung một hồ. Nhà lai tạo tiết lộ rằng ông không lai King Kong với King Kong, dẫu đó là cách phổ biến, mà lai chúng với tép ong đỏ Red Bee. Các nhà lai tạo tuyên bố rằng cách này đem lại kết quả ổn định hơn.


Tép Wine Red tương tự như tép Red Bee nhưng tông đỏ sậm hơn, như màu rượu vang (Ruby Red là biến thể mà màu đỏ vang hầu như lan toàn thân).

Tôi tìm kiếm những biến thể màu mới trong số những con tép non trong các hồ. Chỉ có một số ít tép Panda và King Kong trong một số lượng lớn tép non, mà đa phần là tép ong đỏ bình thường cùng với một số Red Ruby và vài con Blue Bolt hay còn gọi là siêu King Kong (Extreme King Kong).

Lựa màu…
Ở Đài Loan cũng như những quốc gia Đông Nam Á khác, tép với tỷ lệ đen cao chẳng hạn Black Diamond hay siêu King Kong được săn lùng rất dữ. 

Tuy nhiên, người chơi tép ở châu Âu dường như chuộng những cá thể có màu trắng. Ở Nhật Bản, biến thể Black Tiger của người Đức được đánh giá cao hơn nhiều so với các biến thể Red Ruby, King Kong, Panda hay Blue Bolt.

Ghi chú (vnrd)
* Theo ngữ cảnh của bài viết này, chúng ta phân biệt Crystal Red Shrimp (CRS)=tép crystal với Red Bee Shrimp (RBS)=tép ong đỏ. Nhà lai tạo người Nhật Hisayasu Suzuki đã phát hiện một số cá thể đột biến trong bầy tép ong đen (Black Bee Shrimp/Crystal Black Shrimp – BBS/CBS) và lai tuyển chọn các cá thể này cho ra các biến thể màu mới như đỏ=tép crystal (CRS), sọc đỏ-trắng=tép ong đỏ (RBS) và tuyền trắng. Trong các bài viết khác, người ta thường gọi chung tất cả các biến thể màu này là Crystal Red Shrimp (tép crystal/tép ong đỏ).

* Wine Red và Red Ruby


* King Kong


* Black Tiger